Chạy thận nhân tạo là gì? Các công bố khoa học về Chạy thận nhân tạo

Chạy thận nhân tạo, còn được gọi là máy giả thận, là quá trình thực hiện các chức năng của thận bằng một thiết bị ngoại vi trong trường hợp thận của người bệnh ...

Chạy thận nhân tạo, còn được gọi là máy giả thận, là quá trình thực hiện các chức năng của thận bằng một thiết bị ngoại vi trong trường hợp thận của người bệnh bị suy yếu hoặc không hoạt động bình thường. Thiết bị này thường được sử dụng trong điều trị bệnh nhân bị suy thận mãn tính hoặc cấp tính, giúp lọc máu, loại bỏ chất thải và chất trao đổi chất cần thiết. Quá trình này giúp duy trì cân bằng acid-base và chất điện giải trong cơ thể, hiệu chỉnh nồng độ nước và các chất dinh dưỡng, và điều chỉnh áp lực máu.
Chạy thận nhân tạo được thực hiện thông qua hai phương pháp chính: chạy thận liên tục (CRRT - Continuous Renal Replacement Therapy) và chạy thận truyền thống (HD - Hemodialysis). Dưới đây là mô tả chi tiết về cả hai phương pháp:

1. Chạy thận liên tục (CRRT):
- CRRT là một phương pháp chạy thận nhân tạo được thực hiện liên tục trong vòng nhiều giờ hoặc kéo dài liên tục trong nhiều ngày.
- Máy CRRT sử dụng một mô-đun máy chủ chứa các bộ lọc và thiết bị cần thiết để xử lý máu và nước tiểu của bệnh nhân.
- Máu được rút ra từ người bệnh thông qua ống nối vào tĩnh mạch và chạy qua các bộ lọc để loại bỏ chất thải và chất trao đổi chất không mong muốn. Sau đó, máu đã được làm sạch được truyền trở lại vào cơ thể của bệnh nhân thông qua ống nối vào mạch máu.
- Nước tiểu của bệnh nhân được thu thập từ ống nối vào niệu quản và chạy qua bộ lọc riêng để loại bỏ chất thải và chất trao đổi chất cần thiết. Nước tiểu đã được làm sạch sau đó được tiêu thụ hoặc xử lý tiếp theo.

2. Chạy thận truyền thống (HD):
- HD là phương pháp chạy thận nhân tạo được thực hiện theo kịch bản ngắn hạn, thường chỉ trong vài giờ.
- Trong HD, máu của bệnh nhân được rút ra thông qua ống nối vào tĩnh mạch và chạy qua một bộ lọc màng semipermeable. Bộ lọc này giúp tách chất thải và chất trao đổi chất không mong muốn từ máu của bệnh nhân, trong khi các chất cần thiết và chất điện giải được giữ lại trong cơ thể.
- Máu đã được làm sạch sau đó được truyền trở lại vào cơ thể của bệnh nhân thông qua ống nối vào mạch máu. Quá trình lọc máu này thường được thực hiện trong phòng cho bệnh nhân nằm xuống và được giám sát kỹ thuật viên chuyên nghiệp.

Cả hai phương pháp đều cung cấp cho bệnh nhân chức năng thận tạm thời và quan trọng trong việc loại bỏ chất thải và chất trao đổi chất không mong muốn khỏi cơ thể. Trong quá trình này, các chỉ số toàn diện của cơ thể như áp suất máu, cân bằng nước và điện giải được điều chỉnh và khắc phục tạm thời để duy trì sự ổn định của cơ thể.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chạy thận nhân tạo":

Mức Bisphenol A Trong Huyết Thanh Cao Hơn Ở Bệnh Nhân Hemodialysis Bị Tiểu Đường Dịch bởi AI
Blood Purification - Tập 42 Số 1 - Trang 77-82 - 2016

<b><i>Đặt vấn đề:</i></b> Bisphenol A (BPA) đã được liên quan đến vai trò là 'chất gây rối loạn nội tiết'. Chúng tôi nhằm mục đích khám phá mối liên hệ giữa mức BPA trong huyết thanh và đặc điểm bệnh nhân, đặc biệt là sự hiện diện của bệnh tiểu đường, cũng như các thông số xét nghiệm ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo.<b><i>Phương pháp:</i></b> Nghiên cứu này bao gồm 47 bệnh nhân chạy thận nhân tạo mãn tính. Các đặc điểm của bệnh nhân được ghi nhận. Máu được lấy trước và sau buổi chạy thận nhân tạo. Mức BPA trong huyết thanh được đo bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao và các thông số xét nghiệm được đo bằng cách sử dụng các phương pháp tiêu chuẩn.<b><i>Kết quả:</i></b> Ở bệnh nhân chạy thận, mức BPA trong huyết thanh sau chạy thận cao hơn đáng kể so với trước chạy thận sau một phiên chạy thận đơn lẻ (5.57 ± 1.2 so với 4.06 ± 0.73, p < 0.0001). Mức BPA trong huyết thanh trước khi chạy thận cao hơn đáng kể ở bệnh nhân bị tiểu đường so với bệnh nhân không bị tiểu đường (4.4 ± 0.6 so với 3.9 ± 0.7, p = 0.025). Không có mối liên hệ nào được tìm thấy giữa mức BPA trong huyết thanh và các đặc điểm của bệnh nhân, đặc biệt là các thông số xét nghiệm.<b><i>Kết luận:</i></b> Mức BPA trong huyết thanh tăng lên đáng kể sau một phiên chạy thận đơn lẻ. Bệnh nhân chạy thận tiểu đường có mức BPA trong huyết thanh trước khi chạy thận cao hơn.

#Bisphenol A #Tiểu đường #Chạy thận nhân tạo #Mức huyết thanh #Rối loạn nội tiết
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN RỐI LOẠN LIPID MÁU Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI CHẠY THẬN NHÂN TẠO CHU KỲ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Bệnh thận mạn là vấn đề sức khỏe toàn cầu với tỷ lệ mắc bệnh ngày càng tăng. Rối loạn lipid máu là vấn đề thường gặp ở bệnh nhân bênh thận mạn, nó làm tăng nguy cơ tai biến tim mạch ở bệnh nhân bệnh thận mạn. Kiểm soát rối loạn lipid máu và các yếu tố liên quan đến rối loạn lipid máu là một trong những mục tiêu điều trị cho bệnh nhân bệnh thận mạn. Mục tiêu nghiên cứu:  Nghiên  cứu  mối liên quan giữa rối loạn lipid máu với thời gian lọc máu, nguyên nhân của bệnh thận mạn, tăng huyết áp, hemoglobin máu, protein máu toàn phần và albumin huyết thanh ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối chạy thận nhân tạo chu kỳ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Tiến hành nghiên cứu trên 60 bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối chạy thận nhân tạo chu kỳ tại Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An. Kết quả nghiên cứu: (1) Nồng độ trung bình cholesterol máu toàn phần, TG, HDL - C, LDL - C, chỉ số TC/HDL - C, LDL/HDL - C khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh thận mạn chạy thận dưới 1 năm và trên 1 năm, giữa các nhóm nguyên nhân của bệnh thận mạn, giữa nhóm không tăng huyết áp và nhóm tăng huyết áp; (2) Nồng độ trung bình của triglycerid ở nhóm bệnh thận mạn có nồng độ hemoglobin < 90g/l cao hơn so với nhóm có nồng độ hemoglobin ≥ 90g/l; (3) Nồng độ trung bình của cholesterol ở nhóm có nồng độ protein < 65g/l cao hơn so với nhóm có nồng độ protein ≥ 65g/l; (4) Nồng độ trung bình cholesterol ở nhóm có nồng độ albumin < 35g/l cao hơn so với nhóm có nồng độ albumin ≥ 35 g/l với p <0,05.
#Rối loạn lipid máu #bệnh thận mạn
HIỆU QUẢ LỌC MÁU Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI CHẠY THẬN NHÂN TẠO CHU KỲ TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 2 - 2021
Bệnh thận mạn đặc biệt là bệnh thận mạn giai đoạn cuối là vấn đề sức khỏe toàn cầu với tỷ lệ mắc bệnh cao. Thận nhân tạo chu kỳ là phương pháp điều trị thay thế thận được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả lọc máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối chạy thận nhân tạo chu kỳ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp so sánh trước sau. Kết quả: (1) Chỉ số URR trung bình là 64,13 ± 3,25 ; chỉ số Kt/V trung bình là 1,22 ± 0,12; (2) Có 67,57% tổng số bệnh nhân đạt chỉ số URR và 75,68% tổng số bệnh nhân đạt chỉ số Kt/V; (3) Các triệu chứng lâm sàng giảm đáng kể sau lọc máu so với trước lọc máu nhất là các triệu chứng mệt mỏi, buồn nôn và đau đầu. Kết luận: Phần lớn bệnh nhân bệnh thận mạn đạt chỉ số URR và Kt/V sau lọc máu.
#Thận nhân tạo #bệnh thận mạn
Chất lượng cuộc sống của người bệnh chạy thận nhân tạo chu kỳ sau giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 3 - Trang 65-76 - 2020
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống của người bệnh chạy thận nhân tạo chu kỳ sau giáo dục sức khoẻ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp giáo dục có so sánh trước sau trên 90 người bệnh chạy thận nhân tạo chu kỳ tại khoa Thận nhân tạo, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình từ tháng 12 năm 2019 đến tháng 4 năm 2020. Tư vấn trực tiếp, nhóm nhỏ từ 7 - 10 người bệnh, nội dung tư vấn dựa trên hướng dẫn của CDC Hoa Kỳ, hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hướng dẫn của Viện dinh dưỡng Quốc gia. Sử dụng bộ câu hỏi đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh thận KDQOL-SFTM phiên bản 1.3 bản tiếng Việt có độ tin cậy với hệ số Cronbach alpha 0,90 trước khi áp dụng cho nghiên cứu này. Kết quả: Với phổ điểm từ 0 - 100 điểm, điểm ở các lĩnh vực đánh giá đều tăng lên so với trước can thiệp; cụ thể điểm trung bình chất lượng cuộc sống SF36 là 42,19 ± 19,75; sau can thiệp 1 tháng, tăng lên 45,70 ± 16,01, sau can thiệp 3 tháng, tăng lên 53,85 ± 16,84. Điểm các vấn đề bệnh thận trước can thiệp là 54,91 ± 21,69 tăng lên 57,94 ± 9,62 sau 1 tháng can thiệp và tăng lên 59,67 ± 10,03 sau 3 tháng can thiệp. Điểm chất lượng cuộc sống chung của người bệnh trước can thiệp là 48,55 ± 16,75, tăng lên 51,82 ± 11,62 sau can thiệp 1 tháng và tăng lên 56,76 ± 12,52 sau can thiệp 3 tháng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Kết luận: Chương trình giáo dục sức khỏe đã góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh chạy thận nhân tạo chu kỳ.
#Chạy thận nhân tạo chu kỳ #chất lượng cuộc sống #người bệnh.
KẾT QUẢ GHÉP THẬN Ở BỆNH NHÂN CHẠY THẬN NHÂN TẠO CHU KỲ VÀ THẨM PHÂN PHÚC MẠC TRƯỚC MỔ GHÉP TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Đa số các bệnh nhân (BN) được lọc máu: chạy thận nhân tạo (CTNT) hoặc thẩm phân phúc mạc (TPPM) trước ghép. Mục tiêu: khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả sau ghép thận ở bệnh nhân CTNT và TPPM trước mổ tại Bệnh viện Nhân Dân 115. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả có so sánh 300 BN ghép thận từ người sống cho thận tại Bệnh viện Nhân Dân 115. Kết quả: Có 248 BN thực hiện CTNT và 52 BN thực hiện TPPM trước mổ ghép thận, tỉ lệ 4,76. Tuổi trung bình: 44,04 (CTNT) và 40,58 (TPPM). Giới: 70 nữ - 178 nam (CTNT) và 21 nữ - 31 nam (TPPM). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về: BMI, thời gian điều trị thay thế thận trước ghép, quan hệ huyết thống, số lần mổ ghép thận, lượng nước tiểu trươc ghép, dung tích bàng quang, các bệnh kết hợp ở hai nhóm bệnh nhân CTNT và TPPM trước mổ. Nhóm CTNT nhận thận trái từ người hiến nhiều hơn nhóm TPPM với p< 0,05. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ chậm hồi phục chức năng thận (delayed graft function: DGF) , nhiễm trùng niệu, thuyên tắc tĩnh mạch, biến chứng sau ghép và tỉ lệ sống còn tại thời điểm 1 năm sau ghép giữa 2 nhóm. Kết luận: Không có sự khác biệt về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng giữa 2 nhóm BN được lọc máu trước ghép cũng như kết quả sau ghép thận.
#CTNT #TPPM và ghép thận
Kết quả trung hạn phẫu thuật tạo cầu nối động tĩnh mạch chạy thận nhân tạo tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai
Mở đầu: Suy thận mạn giai đoạn cuối có khuynh hướng ngày càng tăng và thận nhân tạo vẫn là phương pháp điều trị chủ lực. Cầu nối động tĩnh mạch (AVF: arteriovenous fistula) để chạy thận nhân tạo (CTNT) mang ý nghĩa sống còn đối với bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả các trường hợp phẫu thuật tạo cầu nối động tĩnh mạch để CTNT tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai từ tháng 09/2017 đến tháng 08/2020. Kết quả: Có 158 trường hợp tham gia vào nghiên cứu. Tuổi trung bình: 54,76 ± 26. Trong đó 49,4% là nam. Kết quả sớm sau phẫu thuật: thành công 87,3%, thất bại 12,7%, mổ lại 7,6%. Sau 3, 6 và 12 tháng, tỉ lệ cầu nối còn hoạt động tốt để CTNT lần lượt là 86,70%, 84,18% và 80,38%. Kết quả thành công sớm sau phẫu thuật và trung hạn cho thấy tỉ lệ thành công ở bệnh nhân được lập bản đồ mạch máu trước phẫu thuật có khuynh hướng cao hơn. Một phẫu thuật viên cần tham gia 75 trường hợp phẫu thuật AVF để có tỉ lệ thất bại < 10%, trong điều kiện có lập bản đồ mạch máu. Kết luận: Phẫu thuật AVF ở Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai có tỉ lệ thành công tương đồng với các tác giả trong nước và trên thế giới. Lập bản đồ mạch máu trước mổ giúp đem lại kết quả tốt hơn.
#Cầu nối động tĩnh mạch #bản đồ mạch máu #điều trị thay thế thận
Kết quả của can thiệp nội mạch điều trị hẹp, tắc tĩnh mạch trung tâm trên bệnh nhân chạy thận nhân tạo
Mục tiêu: Đánh giá kết quả của can thiệp nội mạch điều trị bệnh lý hẹp, tắc tĩnh mạch trung tâm ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo qua cầu nối động – tĩnh mạch ở tay cùng bên. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, mô tả các bệnh nhân bị hẹp, tắc tĩnh mạch trung tâm ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo được can thiệp nội mạch (nong bóng, đặt stent) tại khoa Phẫu thuật Mạch máu, bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 1/2017 đến tháng 12/2019. Kết quả: Chúng tôi đã thực hiện 32 trường hợp tạo hình tĩnh mạch trung tâm với gây tê tại chỗ qua đường vào là cầu nối động – tĩnh mạch ở tay cùng bên. Tuổi trung bình là 55,6 ± 3,2, tỉ lệ nam/nữ là 1,67/1. Chỉ định can thiệp lần lượt là phù tay (100%), đau tay (75%), loạn dưỡng da (50%), dãn tĩnh mạch nông vùng cổ, mặt cùng bên (50%). Trong đó có 62,5% số bệnh nhân đã được đặt ống thông tĩnh mạch vùng cổ để chạy thận cùng bên với thương tổn. Mỗi ca can thiệp cần thời gian trung bình khoảng 66,3 ± 6,2 phút. Có 6 trường hợp cần phải đặt stent sau khi nong bóng không hiệu quả. Thành công về kỹ thuật đạt 87,5%. Không có biến chứng lớn hay tử vong sau thủ thuật. Các triệu chứng lâm sàng cải thiện rõ rệt sau thủ thuật trong tất cả các trường hợp. Thời gian nằm viện trung bình sau can thiệp khoảng 2,5 ± 0,8 ngày. Sau 6 tháng, có đến 10 trường hợp (31,3%) cần phải can thiệp lại. Kết luận: Can thiệp nội mạch điều trị hẹp, tắc tĩnh mạch trung tâm là an toàn, hiệu quả vì thành công về kỹ thuật cao, tỉ lệ biến chứng thấp, thời gian tiến hành thủ thuật và nằm viện sau thủ thuật ngắn. Tuy nhiên, bệnh có tỉ lệ tái phát cao, cần phải theo dõi thường xuyên và can thiệp lại khi cần để duy trì lưu thông dài hạn.
#Hẹp #tắc tĩnh mạch trung tâm #chạy thận nhân tạo #can thiệp nội
TỈ LỆ RỐI LOẠN LO ÂU VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI BỆNH CHẠY THẬN NHÂN TẠO TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG NĂM 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Suy thận mạn tính là một tình trạng bệnh phức tạp, ảnh hưởng cả thể chất lẫn tinh thần người bệnh. Để đánh giá chính xác yếu tố về sức khỏe tâm thần, cụ thể là rối loạn lo âu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá về tỉ lệ rối loạn lo âu và các yếu tố liên quan của người bệnh suy thận mạn tính chạy thận nhân tạo tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương năm 2021. Một nghiên cứu cắt ngang thực hiện từ tháng 02/2021 đến tháng 06/2021 trên 221 người bệnh suy thận mạn tính chạy thận nhân tạo tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Tỉ lệ lo âu ghi nhận trong nghiên cứu là  5,9%. Nghiên cứu ghi nhận khoảng cách đến BV, tai biến trong khi chạy thận nhân tạo liên quan đến tỉ lệ trầm cảm của người bệnh (p<0,001). Việc đảm bảo quá trình điều trị giúp người bệnh có tâm lý tốt hơn, từ đó, đảm bảo kết quả điều trị được tốt hơn.
#Lo âu #suy thận mạn tính #chạy thận nhân tạo
Tắc hẹp AVF trong chạy thận nhân tạo: kết quả bước đầu điều trị bằng can thiệp nội mạch
Hiện nay, tỉ lệ bệnh nhân mắc bệnh thận mạn ngày càng gia tăng. Ước tính Việt Nam hiện có khoảng 5 triệu người bị suy thận, trong đó khoảng 26.000 người suy thận mạn giai đoạn cuối. Ngoài ra, mỗi năm có thêm gần 8.000 ca bệnh mới. Do đó, bệnh thận mạn giai đoạn cuối và điều trị thay thế thận hiện nay đã trở thành một vấn đề cấp thiết có tính toàn cầu. Điều trị thay thế thận bao gồm ghép thận, chạy thận nhân tạo và lọc màng bụng định kỳ, trong đó, chạy thận nhân tạo là phương pháp được sử dụng nhiều nhất. Để chạy thận lâu dài, bệnh nhân thường được phẫu thuật tạo cầu nối động – tĩnh mạch tự thân hay còn gọi là cầu nối AVF. Cầu nối AVF là một trong những vấn đề sống còn đối với bệnh nhân có bệnh thận giai đoạn cuối. Hẹp tắc tĩnh mạch đường về của cầu nối là vấn đề thường gặp nhất, làm giảm hiệu quả chạy thận và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Phẫu thuật và can thiệp nội mạch là hai phương pháp có thể điều trị bệnh lý này. Phương pháp nào là tối ưu hiện vẫn chưa được thống nhất. Tuy nhiên, đối với trường hợp tắc hẹp tĩnh mạch trung tâm (tĩnh mạch dưới đòn, tĩnh mạch thân tay đầu) can thiệp nội mạch tỏ ra có ưu thế. Tại Việt Nam, kĩ thuật can thiệp nội mạch điều trị tắc hẹp cầu nối AVF là kĩ thuật mới, chưa có nhiều công trình nghiên cứu báo cáo. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả ban đầu của phương pháp điều trị này.
#* Khoa Phẫu thuật Mạch máu bệnh viện Chợ Rẫy
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHẠY THẬN NHÂN TẠO THÔNG QUA KT/V TRÊN BỆNH NHÂN CHẠY THẬN NHÂN TẠO ĐỊNH KỲ TẠI KHOA THẬN NHÂN TẠO BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Đánh giá hiệu quả sự thanh thải của urê trong chạy thận nhân tạo (CTNT) bằng chỉ số spKt/V là cần thiết trong điều trị bệnh nhân mắc bệnh thận mạn giai đoạn cuối (BTMGĐC), với nhiều phương pháp đánh giá sẽ giúp nhà chuyên môn lựa chọn phương án tối ưu nhất trong điều trị bệnh lý này. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả CTNT bằng cách so sánh chỉ số spKt/V ở phương pháp đo trực tiếp trên máy và phương pháp tính toán theo công thức Daugridas. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 175 bệnh nhân mắc BTMGĐC đang lọc máu tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 1-6/2022, chỉ số spKt/V được đo bằng hai phương pháp trên và tính giá trị trung bình, sử dụng kiểm định Willcoxon signrank để so sánh 2 giá trị đó. Kết quả cho thấy chỉ số trung bình spKt/V ở phương pháp đo trực tiếp trên máy (1,77 (1,5 - 2,06)) và phương pháp tính toán bằng công thức Daugridas (1,6 (1,36 - 1,82)) đều nằm trong giá trị được khuyến cáo. Kiểm định Willcoxon signrank cho thấy sự khác biệt chỉ số spKt/V ở hai phương pháp có ý nghĩa thống kê và Mô hình hồi quy tuyến tính cho thấy có sự tương quan chặt chẽ với hệ số tương quan R = 0,65 và R2 = 0,423 (p<0,001). Vì vậy, nhà chuyên môn cần cân nhắc nên lựa chọn phương pháp đo trực tiếp trên máy để đánh giá và điều chỉnh các thông số trong quá trình CTNT để giúp cho bệnh nhân điều trị hiệu quả bệnh lý mắc phải này.
#Chạy thận nhân tạo #Bệnh thận mạn giai đoạn cuối #chỉ số Kt/V #Bệnh viện Chợ Rẫy
Tổng số: 29   
  • 1
  • 2
  • 3